(2Sao)- Điện ảnh là hình thức nghệ thuật độc
đáo nhất trong lịch sử nghệ thuật của nhân loại. Nếu như so sánh với các
hình thức nghệ thuật khác thì phim ảnh là hình thức nghệ thuật gần gũi
nhất và là phương tiện truyền đạt tốt nhất đến con người. Tuy nhiên, phim ảnh cũng giống như
bất cứ một loại hình nào khác, để có được sức cuốn hút như ngay nay,
phim ảnh đã trải qua một giai đoạn lịch sử phát triển nhiều thăng trầm.
Sau đây là 9 bộ phim được coi là những dấu mốc quan trọng trong quá phát
triển của phim ảnh.
1. A horse in motion (1878)Coi
đây là một bộ phim thì có lẽ là chưa chính xác, bởi vì nó chỉ có duy
nhất một cảnh phi ngựa trong suốt cả đoạn phim, nhưng khi nói đến lịch
sử phát triển của điện ảnh mà không nói đoạn phim này thì là một sự
thiếu sót lớn.
Mặc
dù đoạn phim chỉ kéo dài khoảng 2 phút nhưng nó là cả một cuộc cách
mạnh về nghệ thuật. Đây là lần đầu tiên có những hình ảnh chuyển động,
đi lại trên một khung hình được ra mắt công chúng. Bộ phim chính là sự
đánh dầu về việc ra đời một loại hình nghệ thuật mới.
2. The Birth of a Nation (1915)Đây là một bộ phim sử thi, bộ phim kể về cuộc nội chiến của nước Mỹ và quá trình tái thiết đất nước sau đó. T
he Birth of the Nation đã
làm nên một cuộc cách mạng trong kỹ thuật làm phim, những trận chiến
lớn kỹ thuật sắp xếp khung hình đã trở thành tiêu chuẩn cho các bộ phim
về chiến tranh sau này. Với bộ phim này,
Griffith trở thành người đặt nền móng vững chắc trong quá trình biến điện ảnh thành một bộ môn nghệ thuật.
The Birth of a Nation được
đánh giá là bộ phim bom tấn vào thời đó, doanh thu của bộ phim đạt 10
triệu đô la, nếu tính quy đổi theo giá trị hiện này thì nó tương đương
khoảng 200 triệu đô. Có thể bộ phim được coi dấu mốc lịch sử về kỹ thuật
của nền điện ảnh nhưng nếu về mặt xã hội, thì nó lại không được chào
đón. Trong bộ phim này, vấn đề phân biệt chủng tộc được thể hiện công
khai, thậm chí nó còn thể hiện thái độ bài xích đối với những người có
tư tưởng tiến bộ.
3. Citizen Kane (1941)
Tại sao mọi người không bao giờ thôi nói về
Citizen Kane?
Bởi vì, nó không chỉ là bộ phim tốt nhất của thời điểm đó mà nó còn là
bộ phim mở ra một hướng đi mới về cách kể chuyện. Một yêu tố khác làm
nên sự thành công của bộ phim chính là những cảnh quay trong phim được
dàn cảnh chiều sâu.
Cả bộ phim là hành trình đi tìm ý nghĩa của từ
Rosebud mà
Kane thốt lên trước khi chết, từ đó dựng lên chân dung của
Charles Foster Kane, một ông trùm báo chí lấy hình mẫu từ một ông trùm xuất bản có thật:
William Randolph Hearst. Sau này, người ta phát hiện ra rằng
Orson Welles đã dùng phương pháp ghép hình để tạo ra những cảnh có độ nét sâu như vậy. Góc quay chủ đạo của
Citizen Kane là góc quay thấp, sau này có ảnh hưởng rất lớn đến dòng phim noir. Góc
quay này cũng góp phần tạo nên sự bí ẩn, khó hiểu của phim cũng như gây
ra ấn tượng về sức mạnh và ảnh hưởng khá lớn của
Charles Foster Kane hay chính là của
Hearst trong xã hội bấy giờ.
4. Seven Samurai (1954)Akira Kurosawa là một trong những đạo diễn đầu tiên của Châu Á để lại dấu ấn trong
khán giả Mỹ. Không giống như các bộ phim hành động của các nước phương
Tây,
Seven Samurai của
Akira Kurosawa được xây dựng khá đơn giản nhưng lại toát lên được tất cả các nội dụng
cần truyền đạt của cốt chuyện. Đây là bộ phim hành động kinh điển của
thế giới và được coi là đại diện tiêu biểu của nền điện ảnh Châu Á.
Câu
chuyện xảy ra ở nước Nhật vào đầu thế kỷ 1586, giai đoạn mà nạn đói
hành hoành, giặc giã nổi lên khắp nơi bởi thiên tai và sự bóc lột của
tầng lớp phong kiến thống trị. Bị đe dọa liên miên bởi một băng cướp gồm
40 tên, một ngôi làng tổ chức cuộc họp toàn thể để quyết định xem nên
chống lại hay phục tùng. Trong lúc tuyệt vọng thì họ gặp
Kambei Shimada, một chiến binh già nhưng cực kỳ khôn ngoan. Đồng ý giúp đỡ dân làng,
Kambei đi khắp thành phố để thuyết phục 5 võ sĩ đạo tự do khác cùng chiến đấu với ông.
Seven Samurai thường được các nhà phê bình và báo chí coi là bộ phim có ảnh hưởng lớn
nhất đối với thể loại phim hành động hiện đại. Một số kỹ thuật trong
tác phẩm này đã trở thành những kỹ thuật chủ đạo của thể loại phim hành
động ngày này, chẳng hạn như kiểu quay chậm để minh họa cái chết của
nhiều kẻ thù. Bộ phim cũng áp dụng nhiều thủ thuật mang tính đột phá để
đưa khán giả tới gần hơn với hành động (quay một đàn ngựa ở xa nhưng lại
lồng những tiếng gõ móng to để tạo cảm giác như chúng ở rất gần).
Bộ phim
The 400 Blows (1959) của
Fancois Truffaut là một trong những phim đầu tiên của phong trào Làn sóng mới kiểu Pháp,
một trào lưu nghệ thuật mới được khởi nguồn từ công thức Hollywood.
Những điểm đáng nhớ trong phim này là cách sử dụng các cảnh dài, quét
máy quay và đặc biệt là cảnh cuối cùng của phim, cảnh phim đóng băng lại
ở gương mặt của nhân vật chính.
Mặc
dù Làn sóng mới kiểu Pháp dần dần biến mất từ sau năm 1963, nhưng nó đã
gây cảm hứng cho nhiều làn sóng mới khác trong công nghiệp điện ảnh
toàn thế giới. Phong trào này đã đóng vai trò rất quan trọng trong lịch
sử điện ảnh. Cho đến tận hôm nay, bạn vẫn có thể nhận ra sự ảnh hưởng
của trường phái này trong các mẫu phim quảng cáo cũng như một số phim
truyện.
6. The Godfather (1972)Bộ phim
The Godfather(1972) nói về gia đình tội phạm
Corleone. Bộ phim không đi sâu vào việc bóc tách khái niệm tốt và xấu, mà nó đi
sâu vào việc tìm hiểu lý do tại sao họ lại như vậy. Đây chính là nét
mới, nét lạ mà đạo diễn
Francis Ford Coppola lần đầu tiên mang đến cho công chúng.
Đến tận thời điểm này,
The Godfather (1972) vẫn
đứng đầu Top 250 phim được yêu thích nhất mọi thời đại với tỷ lệ 91%
phiếu bầu. Bộ phim cũng giành được 3 giải Oscar cho Diễn viên chính xuất
sắc nhất, Hình ảnh phim xuất sắc nhất và Kịch bản xuất sắc nhất (1973).
Và chiến thắng hàng loạt 19 giải thưởng giá trị tận một thời gian dài
sau đó.
7. Eraserhead (1977)Cũng giống như Làn sóng mới kiểu Pháp, cái tên
David Lynch gắn liền với những bộ phim kinh dị kinh điển. Trong lịch sử điển ảnh thế giới, thì
Lynch giống như một tượng đài trong thể loại phim kinh dị. Phim kinh dị của
Lynch luôn khác biệt so với các bộ phim kinh dị khác. Trong tác phẩm đầu tay của mình
Eraserhead,
Lynch đã sử dung những thủ pháp gây sợ khá kinh điển: Thay vì gây áp lực lên
các giác quan thì việc sử dụng từng chi tiết để khơi dậy cảm giác sợ hãi
và rôi làm nó bùng lên bất cứ lúc nào.
Bộ phim
Eraserhead nói về một chàng trai đi lạc vào một thành phố có không khí u ám. Và
câu chuyện tiếp diễn với những yếu tố gây sợ hãi khi anh chăm nom một
đứa trẻ quái vật trong căn phòng ở khách sạn.
8. Pulp Fiction Pulp Fiction được xây dựng theo thủ pháp phi tuyến tính, một thủ pháp làm phim rất
phổ biến trong thập kỷ trước. Với cách xáo trộn trình tự các cảnh, phim
dường như là tập hợp của những câu chuyện tưởng như rời rạc, nhưng thực
chất là chúng có gắn kết với nhau.
Pulp fiction là một bộ phim tiêu biểu cho phong cách của
Quentin Tarantino:
Nhiều bạo lực, xem qua có vẻ đơn giản nhưng thực ra phải xem đi xem lại
vài lần có lẽ mới hiểu được ý nghĩa của nó. Không chỉ tiêu biểu về
phong cách làm phim mà
Pulp fiction còn tiêu biểu về góc máy, hình ảnh và âm nhạc trong phim. Các góc máy
trong phim tả thực, hình ảnh không chau chuốt nhiều. Những cảnh bạo lực:
bắn giết, máu me…đều rất thực và không hề dùng kĩ xảo để làm giảm bớt.
Nước phim cũng có vẻ cũ kĩ chứ không bóng bẩy, mịn và sắc nét như nhiều
phim khác. Đó là thủ pháp thường thấy trong các phim của
Q.Tarantino. Ngoài ra, nếu chú ý, ta cũng nhận thấy phần nhạc chủ đạo trong
Pulp fiction là nhạc rock and roll, để làm bộ phim thêm kịch tính.
9. Blair Witch ProjectBộ phim
Blair Witch Project không
được xếp vào danh mục những bộ phim kinh điển, nhưng nếu nói đến những
bộ phim làm thay đổi lịch sử điện ảnh mà không nói đến bộ phim này thì
đó là một thiếu sót đáng trách.
Bộ phim được thực hiện với một
ngân sách eo hẹp, không diễn viên chuyên nghiệp, thậm chí còn không có
một kịch bản theo đúng tiêu chuẩn nhưng câu chuyện ma quái trong
Blair Witch Project lại khiến người xem rùng mình và kinh hãi.
Cái sự hoàn toàn đơn giản và xác thực của
The Blair Witch Project chính
là thành công lớn nhất của nó. Lạc trong rừng, nghe thấy những tiếng
động, mọi thứ chuyển động, và chỉ với một chiếc máy quay video xách tay
làm bạn đồng hành, nhóm ba cô cậu sinh viên dẫn đường của chúng ta đã
được giao đóng sao cho thật hết mức có thể trong phạm vi mà, ngay cả sau
khi đã xem xong bộ phim, rất nhiều người vẫn còn nghi hoặc liệu bộ phim
này có thật hay không. Được quay như một bộ phim tài liệu, suốt chiều
dài phim không hề có một chút nhạc nền nào đã làm cho nó trở nên rất lạ
và hết sức thuyết phục.
Lê Anh (Tổng hợp)